Ẩn dụ ý niệm là gì? Các công bố khoa học về Ẩn dụ ý niệm
ẩn dụ ý niệm là một kỹ thuật trong việc sử dụng từ ngữ hoặc hình ảnh để truyền đạt một ý nghĩa sâu sắc hơn, phức tạp hơn so với ý nghĩa nguyên bản. Nhiều khi, ẩ...
ẩn dụ ý niệm là một kỹ thuật trong việc sử dụng từ ngữ hoặc hình ảnh để truyền đạt một ý nghĩa sâu sắc hơn, phức tạp hơn so với ý nghĩa nguyên bản. Nhiều khi, ẩn dụ ý niệm được sử dụng để tái hiện những tình huống, khái niệm hoặc ý tưởng một cách hình ảnh, giúp tạo ra sự tò mò và sự tưởng tượng cho người đọc hoặc người nghe.
Ở một mức độ cụ thể hơn, ẩn dụ ý niệm có thể được hiểu như việc sử dụng những từ ngữ hoặc hình ảnh để truyền đạt không chỉ một ý nghĩa rõ ràng mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa và thông điệp sâu sắc khác. Nó thường được sử dụng trong văn chương, thơ ca, phim ảnh và nghệ thuật trực quan.
Ví dụ, một ẩn dụ ý niệm phổ biến trong văn chương là việc sử dụng một loài hoa để biểu hiện tình yêu. Hoa thường được liên kết với tình yêu, vẻ đẹp, sự trân quý và đôi khi cả sự tàn phai. Việc sử dụng một hoa để diễn đạt tình yêu có thể mang đến nhiều ý nghĩa khác nhau, bao gồm sự tinh tế, sự tội lỗi, những cảm xúc đa dạng và thậm chí là sự mất mát.
Một ví dụ khác có thể là việc sử dụng hình ảnh một con chim bay lên cao để biểu hiện sự tự do. Hình ảnh này không chỉ đại diện cho trạng thái vật chất của con chim, mà còn biểu thị ý niệm về sự giải phóng, sự thoát khỏi ràng buộc và sự truyền cảm hứng.
Ở mức chi tiết hơn, ẩn dụ ý niệm dựa trên việc sử dụng các từ ngữ, tình huống hoặc hình ảnh đã được đặt trong ngữ cảnh phức tạp và điều này yêu cầu người đọc hoặc người nghe phải có kiến thức, hiểu biết và tư duy để tìm ra và hiểu ra ý nghĩa ẩn đằng sau.
Ví dụ, trong tiểu thuyết "To Kill a Mockingbird" của Harper Lee, ẩn dụ ý niệm xuất hiện thông qua một nhân vật chính - con mockingbird (chim nhại). Nhân vật Boo Radley trong tiểu thuyết được miêu tả như một "mockingbird" bị người dân thị trấn tàn phá bằng các tin đồn, đồn đại và sự đánh đập. Cho dù Boo Radley chưa từng làm bất kỳ điều gì xấu xa, ý nghĩa của con mockingbird là sự vô tội, trong sạch mà bị xã hội và con người hủy hoại. Như vậy, ẩn dụ ý niệm này tạo ra một thông điệp sâu sắc về tính cách con người, sự bất công và sự phân biệt xã hội.
Một ví dụ khác nằm trong thơ ca, trong bài "The Road Not Taken" của Robert Frost, tác giả sử dụng đường nhánh trong rừng như một ẩn dụ ý niệm. Bài thơ nói về việc lựa chọn, và việc lựa chọn một con đường ít đi để đi vào một con đường không ai đi đã tạo ra một cuộc sống khác biệt. Tuy nhiên, đường ít đi không chỉ là một con đường đơn giản, nó còn biểu thị cho sự ngả ngược của tác giả và sự lựa chọn không đi theo lối mòn. Ẩn dụ ý niệm trong bài thơ này tạo ra một bức tranh về quyết định và sự dũng cảm để khác biệt.
Tóm lại, ẩn dụ ý niệm là một kỹ thuật ngôn ngữ và hình ảnh sử dụng để truyền đạt một ý nghĩa sâu sắc hơn và phức tạp hơn, tùy thuộc vào ngữ cảnh và hiểu biết của người đọc hoặc người nghe.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ẩn dụ ý niệm":
Nghiên cứu này đã xem xét mối quan hệ giữa việc giảng dạy nội dung và sự phát triển hiểu biết về phương pháp thay đổi khái niệm của các ứng viên giáo viên tiểu học. Các sinh viên đại học (
Cần có những phương pháp sáng tạo để tối đa hóa sự phù hợp giữa các đặc điểm của các thực hành dựa trên bằng chứng (EBPs), các chiến lược triển khai hỗ trợ việc sử dụng EBP và các bối cảnh trong đó EBP được triển khai. Các phương pháp triển khai tiêu chuẩn cung cấp rất ít cách để giải quyết những vấn đề như sự phù hợp này. Chúng tôi đã xác định tiềm năng hợp tác với các chuyên gia từ một cách tiếp cận bổ sung liên quan, thiết kế tập trung vào người dùng (UCD), để tăng cường sự thành công trong việc triển khai.
Sự tham gia của cộng đồng là rất quan trọng để tăng tốc việc triển khai các can thiệp dựa trên chứng cứ vào môi trường cộng đồng. Sử dụng kiến thức và ý kiến của các nhà lãnh đạo cộng đồng sẽ làm tăng khả năng thành công trong việc triển khai, mở rộng và duy trì các can thiệp dựa trên chứng cứ.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu sử dụng hướng dẫn phỏng vấn bán cấu trúc dựa trên Khung hợp nhất cho Nghiên cứu Triển khai (CFIR) tại các nhà thờ Công giáo và Tin Lành có số lượng lớn thành viên Latinos ở hạt San Diego, California để khám phá các rào cản và yếu tố thuận lợi trong việc triển khai
Một trong những di chứng chính của đột quỵ là khó khăn trong việc đi lại, được đặc trưng bởi sự giảm tốc độ bước và các kiểu đi lại không đối xứng. Mục tiêu ban đầu của nghiên cứu này là phát triển một thiết bị kích thích rung cảm nhận được sự tăng cường tần số nhịp đi lại một cách ngầm định. Sau đó, một nghiên cứu chứng minh khái niệm với các bệnh nhân đã trải qua đột quỵ đã được thực hiện để kiểm tra tính khả thi của hệ thống đã được phát triển. Chúng tôi đã áp dụng luật Weber để cung cấp một phương pháp ngầm định nhằm tăng tần số kích thích. Luật này liên quan đến việc tính toán sự khác biệt vừa đủ để nhận biết (JND) so với trạng thái trước đó. Trong suốt quá trình tập luyện với thiết bị kích thích được đề xuất, bệnh nhân đã tăng cường nhịp đi lại một cách không đáng kể, và tốc độ nhịp đi cũng như tốc độ đi lại của họ đã tăng đáng kể sau khi kiểm tra. Bước đi vòng hông (tức là, các kiểu đi không bình thường) không thay đổi đáng kể trong suốt quá trình tập luyện. Đáng lưu ý, các bệnh nhân báo cáo rằng họ không nhận thức được bất kỳ thay đổi nào liên quan đến kích thích rung. Kết quả của chúng tôi chứng minh những thay đổi ngay lập tức về nhịp đi và tốc độ đi lại đã xảy ra thông qua việc tập luyện với thiết bị kích thích ngầm định được đề xuất. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này chỉ giới hạn ở những thay đổi về đi lại ngay sau quá trình tập luyện và đã sử dụng một mẫu bệnh nhân đột quỵ nhỏ. Do đó, khối lượng dữ liệu hạn chế thu được ngăn cản việc phân tích nghiêm ngặt về tính khả thi của phương pháp luyện tập này. Tuy nhiên, những kết quả này là hứa hẹn và cung cấp một điểm khởi đầu để căn cứ vào các nghiên cứu lớn hơn.
Cắt bỏ niêm mạc qua nội soi (ESD) cho các khối u lan rộng bên (LST) liên quan đến đường răng cưa (LST‐DL) là một thách thức do những đặc điểm giải phẫu cụ thể của trực tràng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của ESD cho LST‐DL.
Các bệnh nhân liên tiếp có LST‐DL đã trải qua ESD tại bệnh viện của chúng tôi từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2015 đã được ghi nhận hồi cứu trong nghiên cứu này. Tỷ lệ cắt bỏ
Tổng cộng có 49 bệnh nhân với LST‐DL (tuổi trung bình 63 tuổi; 39 nữ; kích thước tổn thương trung bình 57 mm; thời gian theo dõi trung bình 24 tháng) và 96 bệnh nhân với LST‐NDL (tuổi trung bình 67 tuổi; 31 nữ; kích thước tổn thương trung bình 47 mm; thời gian theo dõi trung bình 31 tháng) đã được ghi nhận. Tỷ lệ cắt bỏ
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10